Marknadens största urval
Snabb leverans

Böcker i Dai Tang Kinh Viet Nam-serien

Filter
Filter
Sortera efterSortera Serieföljd
  • av Tue Sy
    171

    TĂNG NHẤT A-HÀM, Tổng Lục. TUỆ SỸ biên soạnTăng nhất A-hàm (Skt. Ekottarāgama) được kể là bộ thứ tư trong bốn A-hàm. Thứ tự này không nhất trí giữa các bộ phái, tùy theo mức độ trọng thị đối với mỗi bộ.Phật giáo sau khi phân thành các bộ phái, mỗi bộ hầu như đều có riêng một hệ thống Thánh điển. Điều có thể nói hầu như khẳng định rằng tất cả các hệ Thánh điển này đều là phiên bản của một hệ Thánh điển nguyên thủy, mà các bộ cùng ghi nhận như nhau, được kết tập lần đầu tiên tại thành Vương Xá bởi năm trăm Đại A-la-hán. Đây được cho là hệ chính thống. Nhưng vẫn có nhiều dấu hiệu cho thấy một số ý kiến không nhất định thừa nhận toàn bộ Phật ngôn được kết tập bởi Đại hội này là hoàn toàn trung thực. Ý kiến tương phản giữa Đại Ca-diếp và Phú-lâu-na sau kết quả được công bố, như được ghi chép trong luật Tứ phần1, cũng như trong Tiểu phẩm Luật tạng Pāli, chứng tỏ điều này. Dầu sao, ý nghĩa chính thống cần được trọng thị, vì sự hòa hiệp của Tăng đoàn sau khi đức Phật tịch diệt.Hình thức Đại hội, cũng như nội dung kết tập, theo ghi chép trong các tài liệu Hán tạng và Pāli hiện có, trên đại thể đều nhất trí. Chính do điều này mà có thể tin tưởng rằng Thánh điển truyền thừa riêng biệt của các bộ phái xuất xứ từ một hệ nguyên thủy và được thừa nhận bởi đại đa số là chính thống. Tất nhiên một số khác biệt phải có, theo cách nhìn của mỗi bộ phái. Điểm khác biệt quan trọng cần nói ở đây, trước hết, là thứ tự các kinh.Một cách tổng quát, có hai loại thứ tự được ghi nhận: (1) Trường, Trung, Tạp, Tăng nhất: thứ tự này được ghi chép trong Luật tạng của các bộ Ngũ phần (Hóa địa bộ), Ma-ha-tăng-kỳ (Đại chúng bộ), Tứ phần (Đàm-vô-đức), và Pāli.(2) Tạp (Tương ưng), Trung, Trường, Tăng nhất: thứ tự ghi bởi Tì-nại-da tạp sự của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ.Trung gian còn có những thay đổi...---Ghi chú 1. Bộ Tăng Nhất A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt, cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    357

    A-TÌ-¿¿T-MA PHÁP U¿N TÚC LU¿NVi¿t d¿ch & chú: TU¿ S¿ & NGUYÊN AN"A-tì-¿¿t-ma Pháp ün túc lün", 12 quy¿n, Tôn gi¿ M¿c-ki¿n-liên t¿o, Tam t¿ng pháp s¿ Huy¿n Trang ph¿ng chi¿u d¿ch": ¿ây là tiêu ¿¿ c¿a m¿t trong sáu túc lün, c¿ng là m¿t trong b¿y lün th¿ c¿n b¿n c¿a Thuy¿t nh¿t thi¿t h¿u b¿, ¿¿¿c phiên d¿ch vào niên hi¿u Hi¿n Khánh th¿ 4 (Tl. 659), tr¿¿c T¿p d¿ môn lün m¿t n¿m, sau khi h¿i h¿¿ng 14 n¿m.Tiêu ¿¿ g¿c Ph¿n c¿a lün th¿ ¿¿¿c ph¿c h¿i y theo d¿n thüt b¿i Yäomitra trong Köavy¿khy¿ (Câu-xá gi¿i minh): Dharmaskandha, cùng lúc v¿i sáu lün th¿ khác l¿p thành c¿ s¿ Thánh ¿i¿n c¿a H¿u b¿. M¿c dù trong sáu lün th¿, ch¿ có Ph¿m löi ¿¿¿c g¿i ¿¿ v¿i tiêu ¿¿ Ph¿m löi túc lün (Prakaräa-p¿dä¿stra), các lün th¿ khác không nh¿ v¿y, nh¿ng trong khi gi¿i thi¿u, Yäomitra d¿n m¿t "thân lün" là Phát trí và "sáu túc lün" (tasya ¿ar¿rabh¿tasya ¿¿¿ p¿d¿¿) . B¿y lün th¿ này, Th¿ Thân nói là m¿t ph¿n c¿a th¿ t¿c A-tì-¿¿t-ma (säketika); nó là ph¿¿ng ti¿n, hay tùy hành, h¿ tr¿ ch¿ng ¿¿c tü vô l¿u cùng v¿i tùy hành c¿a nó là n¿m ün vô l¿u ."Sáu túc lün" tr¿¿c ¿ã ¿¿¿c La-th¿p ¿¿ c¿p trong lün ¿¿i trí ¿¿, g¿i là "sáu ph¿n A-tì-¿àm". C¿n c¿ theo ¿ây, ¿i¿u mà La-th¿p nói là ph¿n thay vì túc, ¿n Thün suy r¿ng t¿ "túc lün" (p¿dä¿stra) - lün chân, và "thân lün" (¿ar¿rä¿stra) - lün thân, ch¿ ¿¿¿c thêm vào các th¿i ¿¿i sau do b¿i t¿m quan tr¿ng c¿a các lün th¿ này trong s¿ phát tri¿n c¿a H¿u b¿. Suy lün này có th¿ h¿p lý, nh¿ng các t¿ Hán d¿ch c¿a La-th¿p ít khi trung thành v¿i các quy t¿c ng¿ nguyên c¿a Sanskrit, nh¿ säjñ¿ (t¿¿ng) có khi d¿ch là t¿¿ng, r¿t d¿ nh¿m l¿n v¿i lak¿äa là hàm ngh¿a y¿u tính hay ¿¿c ¿i¿m, höc nh¿m v¿i nimitta hàm ngh¿a d¿u hi¿u, tín hi¿u thông tin. Do ¿ó không th¿ c¿n c¿ t¿ Hán d¿ch ¿y mà d¿ch ng¿¿c l¿i Sanskrit ¿¿ bi¿t rõ ý ngh¿a chính xác là gì. Trong tr¿¿ng h¿p này c¿ng v¿y. Trong nguyên ngh¿a Sanskrit, p¿da có ngh¿a là "chân", là "g¿c r¿", mà c¿ng có ngh¿a là "ph¿n", chính xác là "m¿t ph¿n t¿" (Wogihara, Monier). Các h¿c gi¿ hi¿n ¿¿i ¿¿u hi¿u nh¿ Huy¿n Trang mà Hán d¿ch sát ngh¿a là "túc lün"...(Trích ph¿n T¿ng Lün, biên sön: Tü S¿)Ghi chú:Toàn b¿ sách do H¿i ¿n Hành ¿¿i T¿ng Kinh Vi¿t Nam th¿c hi¿n ¿¿u ¿¿¿c ¿n hành phi l¿i nhün. V¿i tâm nguy¿n cúng d¿¿ng Pháp thí, H¿i ¿n Hành ¿TKVN l¿n l¿¿t in các Kinh Lüt Lün trên gi¿y t¿t và bìa dày t¿i các nhà in chuyên d¿ng ¿¿ cúng d¿¿ng th¿p ph¿¿ng. Ngoài ra, n¿u quý v¿ mün th¿nh Kinh sách theo nhu c¿u cá nhân mà không b¿ gián ¿ön, hay tr¿¿ng h¿p Kinh sách in ¿ã phân ph¿i h¿t, xin tùy ch¿n cách ¿¿t in sách ¿print on demand" n¿i ¿ây và t¿ nguy¿n tr¿ các chi phí. Giá niêm y¿t ¿ ¿ây là các chi phí t¿i thi¿u do các h¿ th¿ng phát hành qüc t¿ quy ¿¿nh, chúng tôi hoàn toàn không thu b¿t k¿ l¿i nhün nào trong Ph¿t s¿ này.

  •  
    627

    LUẬT TỨ PHẦN, Quyển 3Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh: Hiệu chính & Chú thích: Tỳ-kheo Thích Tuệ SỹBản dịch Luật Tứ phần ấn hành lần thứ nhất PL 2546 (Tl.2002) chỉ mới gồm 30 quyển trong bản Hán, phân thành ba tập, nội dung thuyết minh giới pháp Tỳ-kheo (tập 1 & 2), và giới pháp Tỳ-kheo-ni (tập 3), phổ biến giới hạn trong các giảng khóa và các trường Luật để làm tư liệu học tập, nghiên cứu Giới bổn Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. (...)Hòa thượng [Thích Đỗng Minh] là một số rất ít trong các Tỳ-kheo trì luật của Tăng-già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ nhất trong phả hệ truyền thừa Luật tạng của Tăng già Việt Nam thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương, hoằng truyền Chánh pháp. (...)Chính trong điều kiện và bối cảnh xã hội này, hình ảnh Hòa thượng thường xuyên xuất hiện trong các Tăng sự thường hành giữa hai hệ truyền Luật Nam Bắc, hoặc chính thức, hoặc dự khán. Hòa thượng có kể lại cho chúng tôi nghe những lần Hòa thượng được phép dự khán để quan sát Tăng-già Nam phương tác pháp yết-ma; trong đó sima hay cương giới được ấn định sao cho sự dự khán của Hòa thượng không làm cho Tăng yết-ma bị nghi là phi pháp, phi luật. Những điểm tế nhị như vậy trong sinh hoạt Tăng-già không phải là điều dễ cảm nhận đối với những ai không trực tiếp dự phần hay được nghe từ chính người trực tiếp dự phần; và do đó cũng tương đối khó khăn để lý giải bản thể thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng-già.(...)Bản dịch Luật Tứ phần này của Hòa thượng cùng với sự hiệu chính và chú thích đã được Hòa thượng xem lại, nhưng chúng tôi không thấy Hòa thượng chỉ dạy gì thêm về những sai lầm có thể có trong khi hiệu chính và chú thích; vì vậy đây có thể được coi là bản dịch chuẩn với sự ấn khả của Hòa thượng.Ghi chú 1. Bộ Luật Tứ Phần này gồm có 4 quyển (q.1-4) do HT Thích Đỗng Minh dịch Việt, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ hiệu chính và chú thích: cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này..

  •  
    547

    LUẬT TỨ PHẦN, Quyển 3Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh: Hiệu chính & Chú thích: Tỳ-kheo Thích Tuệ SỹBản dịch Luật Tứ phần ấn hành lần thứ nhất PL 2546 (Tl.2002) chỉ mới gồm 30 quyển trong bản Hán, phân thành ba tập, nội dung thuyết minh giới pháp Tỳ-kheo (tập 1 & 2), và giới pháp Tỳ-kheo-ni (tập 3), phổ biến giới hạn trong các giảng khóa và các trường Luật để làm tư liệu học tập, nghiên cứu Giới bổn Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. (...)Hòa thượng [Thích Đỗng Minh] là một số rất ít trong các Tỳ-kheo trì luật của Tăng-già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ nhất trong phả hệ truyền thừa Luật tạng của Tăng già Việt Nam thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương, hoằng truyền Chánh pháp. (...)Chính trong điều kiện và bối cảnh xã hội này, hình ảnh Hòa thượng thường xuyên xuất hiện trong các Tăng sự thường hành giữa hai hệ truyền Luật Nam Bắc, hoặc chính thức, hoặc dự khán. Hòa thượng có kể lại cho chúng tôi nghe những lần Hòa thượng được phép dự khán để quan sát Tăng-già Nam phương tác pháp yết-ma; trong đó sima hay cương giới được ấn định sao cho sự dự khán của Hòa thượng không làm cho Tăng yết-ma bị nghi là phi pháp, phi luật. Những điểm tế nhị như vậy trong sinh hoạt Tăng-già không phải là điều dễ cảm nhận đối với những ai không trực tiếp dự phần hay được nghe từ chính người trực tiếp dự phần; và do đó cũng tương đối khó khăn để lý giải bản thể thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng-già.(...)Bản dịch Luật Tứ phần này của Hòa thượng cùng với sự hiệu chính và chú thích đã được Hòa thượng xem lại, nhưng chúng tôi không thấy Hòa thượng chỉ dạy gì thêm về những sai lầm có thể có trong khi hiệu chính và chú thích; vì vậy đây có thể được coi là bản dịch chuẩn với sự ấn khả của Hòa thượng.Ghi chú 1. Bộ Luật Tứ Phần này gồm có 4 quyển (q.1-4) do HT Thích Đỗng Minh dịch Việt, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ hiệu chính và chú thích: cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này..

  •  
    311

    UẬT TỨ PHẦN, Quyển 2Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh: Hiệu chính & Chú thích: Tỳ-kheo Thích Tuệ SỹBản dịch Luật Tứ phần ấn hành lần thứ nhất PL 2546 (Tl.2002) chỉ mới gồm 30 quyển trong bản Hán, phân thành ba tập, nội dung thuyết minh giới pháp Tỳ-kheo (tập 1 & 2), và giới pháp Tỳ-kheo-ni (tập 3), phổ biến giới hạn trong các giảng khóa và các trường Luật để làm tư liệu học tập, nghiên cứu Giới bổn Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. (...)Hòa thượng [Thích Đỗng Minh] là một số rất ít trong các Tỳ-kheo trì luật của Tăng-già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ nhất trong phả hệ truyền thừa Luật tạng của Tăng già Việt Nam thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương, hoằng truyền Chánh pháp. (...)Chính trong điều kiện và bối cảnh xã hội này, hình ảnh Hòa thượng thường xuyên xuất hiện trong các Tăng sự thường hành giữa hai hệ truyền Luật Nam Bắc, hoặc chính thức, hoặc dự khán. Hòa thượng có kể lại cho chúng tôi nghe những lần Hòa thượng được phép dự khán để quan sát Tăng-già Nam phương tác pháp yết-ma; trong đó sima hay cương giới được ấn định sao cho sự dự khán của Hòa thượng không làm cho Tăng yết-ma bị nghi là phi pháp, phi luật. Những điểm tế nhị như vậy trong sinh hoạt Tăng-già không phải là điều dễ cảm nhận đối với những ai không trực tiếp dự phần hay được nghe từ chính người trực tiếp dự phần; và do đó cũng tương đối khó khăn để lý giải bản thể thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng-già.(...)Bản dịch Luật Tứ phần này của Hòa thượng cùng với sự hiệu chính và chú thích đã được Hòa thượng xem lại, nhưng chúng tôi không thấy Hòa thượng chỉ dạy gì thêm về những sai lầm có thể có trong khi hiệu chính và chú thích; vì vậy đây có thể được coi là bản dịch chuẩn với sự ấn khả của Hòa thượng.Ghi chú 1. Bộ Luật Tứ Phần này gồm có 4 quyển (q.1-4) do HT Thích Đỗng Minh dịch Việt, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ hiệu chính và chú thích: cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này..

  •  
    611

    LUẬT TỨ PHẦN, Quyển 1Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh: Hiệu chính & Chú thích: Tỳ-kheo Thích Tuệ SỹBản dịch Luật Tứ phần ấn hành lần thứ nhất PL 2546 (Tl.2002) chỉ mới gồm 30 quyển trong bản Hán, phân thành ba tập, nội dung thuyết minh giới pháp Tỳ-kheo (tập 1 & 2), và giới pháp Tỳ-kheo-ni (tập 3), phổ biến giới hạn trong các giảng khóa và các trường Luật để làm tư liệu học tập, nghiên cứu Giới bổn Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. (...)Hòa thượng [Thích Đỗng Minh] là một số rất ít trong các Tỳ-kheo trì luật của Tăng-già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ nhất trong phả hệ truyền thừa Luật tạng của Tăng già Việt Nam thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương, hoằng truyền Chánh pháp. (...)Chính trong điều kiện và bối cảnh xã hội này, hình ảnh Hòa thượng thường xuyên xuất hiện trong các Tăng sự thường hành giữa hai hệ truyền Luật Nam Bắc, hoặc chính thức, hoặc dự khán. Hòa thượng có kể lại cho chúng tôi nghe những lần Hòa thượng được phép dự khán để quan sát Tăng-già Nam phương tác pháp yết-ma; trong đó sima hay cương giới được ấn định sao cho sự dự khán của Hòa thượng không làm cho Tăng yết-ma bị nghi là phi pháp, phi luật. Những điểm tế nhị như vậy trong sinh hoạt Tăng-già không phải là điều dễ cảm nhận đối với những ai không trực tiếp dự phần hay được nghe từ chính người trực tiếp dự phần; và do đó cũng tương đối khó khăn để lý giải bản thể thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng-già.(...)Bản dịch Luật Tứ phần này của Hòa thượng cùng với sự hiệu chính và chú thích đã được Hòa thượng xem lại, nhưng chúng tôi không thấy Hòa thượng chỉ dạy gì thêm về những sai lầm có thể có trong khi hiệu chính và chú thích; vì vậy đây có thể được coi là bản dịch chuẩn với sự ấn khả của Hòa thượng.Ghi chú 1. Bộ Luật Tứ Phần này gồm có 4 quyển (q.1-4) do HT Thích Đỗng Minh dịch Việt, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ hiệu chính và chú thích: cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này..

  •  
    531

    LUẬT TỨ PHẦN, Quyển 1Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh: Hiệu chính & Chú thích: Tỳ-kheo Thích Tuệ SỹBản dịch Luật Tứ phần ấn hành lần thứ nhất PL 2546 (Tl.2002) chỉ mới gồm 30 quyển trong bản Hán, phân thành ba tập, nội dung thuyết minh giới pháp Tỳ-kheo (tập 1 & 2), và giới pháp Tỳ-kheo-ni (tập 3), phổ biến giới hạn trong các giảng khóa và các trường Luật để làm tư liệu học tập, nghiên cứu Giới bổn Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. (...)Hòa thượng [Thích Đỗng Minh] là một số rất ít trong các Tỳ-kheo trì luật của Tăng-già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ nhất trong phả hệ truyền thừa Luật tạng của Tăng già Việt Nam thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương, hoằng truyền Chánh pháp. (...)Chính trong điều kiện và bối cảnh xã hội này, hình ảnh Hòa thượng thường xuyên xuất hiện trong các Tăng sự thường hành giữa hai hệ truyền Luật Nam Bắc, hoặc chính thức, hoặc dự khán. Hòa thượng có kể lại cho chúng tôi nghe những lần Hòa thượng được phép dự khán để quan sát Tăng-già Nam phương tác pháp yết-ma; trong đó sima hay cương giới được ấn định sao cho sự dự khán của Hòa thượng không làm cho Tăng yết-ma bị nghi là phi pháp, phi luật. Những điểm tế nhị như vậy trong sinh hoạt Tăng-già không phải là điều dễ cảm nhận đối với những ai không trực tiếp dự phần hay được nghe từ chính người trực tiếp dự phần; và do đó cũng tương đối khó khăn để lý giải bản thể thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng-già.(...)Bản dịch Luật Tứ phần này của Hòa thượng cùng với sự hiệu chính và chú thích đã được Hòa thượng xem lại, nhưng chúng tôi không thấy Hòa thượng chỉ dạy gì thêm về những sai lầm có thể có trong khi hiệu chính và chú thích; vì vậy đây có thể được coi là bản dịch chuẩn với sự ấn khả của Hòa thượng.Ghi chú 1. Bộ Luật Tứ Phần này gồm có 4 quyển (q.1-4) do HT Thích Đỗng Minh dịch Việt, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ hiệu chính và chú thích: cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này..

  • av Tue Sy
    307

    Đại Tạng Kinh Việt Nam - Thanh Văn Tạng - Luật Bộ.Luật Tứ Phần - Tổng LụcBiên soạn: Tuệ SỹTrước sự phá sản của các giá trị đạo đức truyền thống càng lúc càng trầm trọng diễn ra khiến các cộng đồng xã hội đang mất dần tính tự chủ, dễ bị tha hóa theo những giá trị vật chất; những tín điều đạo đức tôn giáo mới càng lúc càng trở thành tiêu chuẩn cho văn minh tiến bộ theo hướng vật dục và nuôi dưỡng tinh thần cuồng tín và kỳ thị. Sự phá sản tinh thần không chỉ xảy ra trong một phạm vi xã hội, mà nó lan dần đến cả trong sinh hoạt Thiền môn. Thanh quy của Thiền môn chỉ còn là một lớp vỏ, mà lại là lớp vỏ rách nát không đủ che đậy những dấu hiệu thoái hóa. Tăng-già đang trên chiều hướng tục hóa, có nguy cơ trở thành một cộng đồng ô hợp tồn tại chỉ vì quyền lợi vật chất thế gian. Trên những lối đi đầy gai góc của rừng Thiền bấy giờ, vẫn luôn luôn ẩn hiện những dấu chân Long Tượng dấn bước tìm lại lối mòn cổ đạo đồng thời thuận hướng với trào lưu lịch sử của đất nước và nhân loại. Đó là những bước đi tái khai phá, dò dẫm một cách thận trọng.(...)Trong ước nguyện kế thừa di sản vô giá của Hòa thượng [Thích Đỗng Minh], chúng tôi đã vận dụng tất cả giới hạn hiểu biết của mình về ngôn ngữ để chú giải bản Việt dịch của Hòa thượng, được thực hiện với sự hỗ trợ của Thầy Đức Thắng, trưởng tử của Hòa thượng. Bản ý của Hòa thượng muốn có một căn bản Luật tạng y cứ trên sự đối chiếu giữa hai hệ Luật Nam Bắc, là hệ Pāli và hệ Hán tạng, với hy vọng trong tương lai tiến tới sự thống nhất Luật tạng của cả hai hệ, ít nhất về mặt nhận thức. Vì vậy, trong khi hiệu chính và chú thích, chúng tôi đã tham chiếu thường xuyên Luật Pāli, đối chiếu dụng ngữ, cú pháp, cho đến nội dung các điều khoản học xứ...Ghi chú 1. Bộ Luật Tứ Phần gồm có 4 quyển Luật (quyển 1-4) do HT Thích Đỗng Minh và HT Thích Tuệ Sỹ dich Việt và hiệu chính, chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do HT Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí Hội Ấn Hành ĐTKVN đã/sẽ lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên nghiệp để cúng dường thập phương. Tuy nhiên, nếu quý vị muốn có riêng từng kinh, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách in POD nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  • av Tue Sy
    191

    Đại Tạng Kinh Việt Nam - Thanh Văn Tạng - Luật Bộ.Luật Tứ Phần - Tổng LụcBiên soạn: Tuệ SỹBản dịch Luật Tứ phần ấn hành lần thứ nhất PL 2546 (Tl.2002) chỉ mới gồm 30 quyển trong bản Hán, phân thành ba tập, nội dung thuyết minh giới pháp Tỳ-kheo (tập 1 & 2), và giới pháp Tỳ-kheo-ni (tập 3), phổ biến giới hạn trong các giảng khóa và các trường Luật để làm tư liệu học tập, nghiên cứu Giới bổn Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. (...)Trước sự phá sản của các giá trị đạo đức truyền thống càng lúc càng trầm trọng diễn ra khiến các cộng đồng xã hội đang mất dần tính tự chủ, dễ bị tha hóa theo những giá trị vật chất; những tín điều đạo đức tôn giáo mới càng lúc càng trở thành tiêu chuẩn cho văn minh tiến bộ theo hướng vật dục và nuôi dưỡng tinh thần cuồng tín và kỳ thị. Sự phá sản tinh thần không chỉ xảy ra trong một phạm vi xã hội, mà nó lan dần đến cả trong sinh hoạt Thiền môn. Thanh quy của Thiền môn chỉ còn là một lớp vỏ, mà lại là lớp vỏ rách nát không đủ che đậy những dấu hiệu thoái hóa. Tăng-già đang trên chiều hướng tục hóa, có nguy cơ trở thành một cộng đồng ô hợp tồn tại chỉ vì quyền lợi vật chất thế gian. Trên những lối đi đầy gai góc của rừng Thiền bấy giờ, vẫn luôn luôn ẩn hiện những dấu chân Long Tượng dấn bước tìm lại lối mòn cổ đạo đồng thời thuận hướng với trào lưu lịch sử của đất nước và nhân loại. Đó là những bước đi tái khai phá, dò dẫm một cách thận trọng.(...)Trong ước nguyện kế thừa di sản vô giá của Hòa thượng [Thích Đỗng Minh], chúng tôi đã vận dụng tất cả giới hạn hiểu biết của mình về ngôn ngữ để chú giải bản Việt dịch của Hòa thượng, được thực hiện với sự hỗ trợ của Thầy Đức Thắng, trưởng tử của Hòa thượng. Bản ý của Hòa thượng muốn có một căn bản Luật tạng y cứ trên sự đối chiếu giữa hai hệ Luật Nam Bắc, là hệ Pāli và hệ Hán tạng, với hy vọng trong tương lai tiến tới sự thống nhất Luật tạng của cả hai hệ, ít nhất về mặt nhận thức. Vì vậy, trong khi hiệu chính và chú thích, chúng tôi đã tham chiếu thường xuyên Luật Pāli, đối chiếu dụng ngữ, cú pháp, cho đến nội dung các điều khoản học xứ...Ghi chú 1. Bộ Luật Tứ Phần gồm có 4 quyển Luật (quyển 1-4) do HT Thích Đỗng Minh và HT Thích Tuệ Sỹ dich Việt và hiệu chính, chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do HT Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí Hội Ấn Hành ĐTKVN đã/sẽ lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên nghiệp để cúng dường thập phương. Tuy nhiên, nếu quý vị muốn có riêng từng kinh, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách in POD nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    437

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 12 - KINH BỘ XIITĂNG NHẤT A-HÀM, Quyển 3. Việt dịch & chú TUỆ SỸ - THÍCH ĐỨC THẮNGTăng nhất A-hàm (Skt. Ekottarāgama) được kể là bộ thứ tư trong bốn A-hàm. Thứ tự này không nhất trí giữa các bộ phái, tùy theo mức độ trọng thị đối với mỗi bộ.Phật giáo sau khi phân thành các bộ phái, mỗi bộ hầu như đều có riêng một hệ thống Thánh điển. Điều có thể nói hầu như khẳng định rằng tất cả các hệ Thánh điển này đều là phiên bản của một hệ Thánh điển nguyên thủy, mà các bộ cùng ghi nhận như nhau, được kết tập lần đầu tiên tại thành Vương Xá bởi năm trăm Đại A-la-hán. Đây được cho là hệ chính thống. Nhưng vẫn có nhiều dấu hiệu cho thấy một số ý kiến không nhất định thừa nhận toàn bộ Phật ngôn được kết tập bởi Đại hội này là hoàn toàn trung thực. Ý kiến tương phản giữa Đại Ca-diếp và Phú-lâu-na sau kết quả được công bố, như được ghi chép trong luật Tứ phần1, cũng như trong Tiểu phẩm Luật tạng Pāli, chứng tỏ điều này. Dầu sao, ý nghĩa chính thống cần được trọng thị, vì sự hòa hiệp của Tăng đoàn sau khi đức Phật tịch diệt.Hình thức Đại hội, cũng như nội dung kết tập, theo ghi chép trong các tài liệu Hán tạng và Pāli hiện có, trên đại thể đều nhất trí. Chính do điều này mà có thể tin tưởng rằng Thánh điển truyền thừa riêng biệt của các bộ phái xuất xứ từ một hệ nguyên thủy và được thừa nhận bởi đại đa số là chính thống. Tất nhiên một số khác biệt phải có, theo cách nhìn của mỗi bộ phái. Điểm khác biệt quan trọng cần nói ở đây, trước hết, là thứ tự các kinh.Một cách tổng quát, có hai loại thứ tự được ghi nhận: (1) Trường, Trung, Tạp, Tăng nhất: thứ tự này được ghi chép trong Luật tạng của các bộ Ngũ phần (Hóa địa bộ), Ma-ha-tăng-kỳ (Đại chúng bộ), Tứ phần (Đàm-vô-đức), và Pāli.(2) Tạp (Tương ưng), Trung, Trường, Tăng nhất: thứ tự ghi bởi Tì-nại-da tạp sự của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ.Trung gian còn có những thay đổi...---Ghi chú 1. Bộ Tăng Nhất A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt, cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    357

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 12 - KINH BỘ XIITĂNG NHẤT A-HÀM, Quyển 3. Việt dịch & chú TUỆ SỸ - THÍCH ĐỨC THẮNGTăng nhất A-hàm (Skt. Ekottarāgama) được kể là bộ thứ tư trong bốn A-hàm. Thứ tự này không nhất trí giữa các bộ phái, tùy theo mức độ trọng thị đối với mỗi bộ.Phật giáo sau khi phân thành các bộ phái, mỗi bộ hầu như đều có riêng một hệ thống Thánh điển. Điều có thể nói hầu như khẳng định rằng tất cả các hệ Thánh điển này đều là phiên bản của một hệ Thánh điển nguyên thủy, mà các bộ cùng ghi nhận như nhau, được kết tập lần đầu tiên tại thành Vương Xá bởi năm trăm Đại A-la-hán. Đây được cho là hệ chính thống. Nhưng vẫn có nhiều dấu hiệu cho thấy một số ý kiến không nhất định thừa nhận toàn bộ Phật ngôn được kết tập bởi Đại hội này là hoàn toàn trung thực. Ý kiến tương phản giữa Đại Ca-diếp và Phú-lâu-na sau kết quả được công bố, như được ghi chép trong luật Tứ phần1, cũng như trong Tiểu phẩm Luật tạng Pāli, chứng tỏ điều này. Dầu sao, ý nghĩa chính thống cần được trọng thị, vì sự hòa hiệp của Tăng đoàn sau khi đức Phật tịch diệt.Hình thức Đại hội, cũng như nội dung kết tập, theo ghi chép trong các tài liệu Hán tạng và Pāli hiện có, trên đại thể đều nhất trí. Chính do điều này mà có thể tin tưởng rằng Thánh điển truyền thừa riêng biệt của các bộ phái xuất xứ từ một hệ nguyên thủy và được thừa nhận bởi đại đa số là chính thống. Tất nhiên một số khác biệt phải có, theo cách nhìn của mỗi bộ phái. Điểm khác biệt quan trọng cần nói ở đây, trước hết, là thứ tự các kinh.Một cách tổng quát, có hai loại thứ tự được ghi nhận: (1) Trường, Trung, Tạp, Tăng nhất: thứ tự này được ghi chép trong Luật tạng của các bộ Ngũ phần (Hóa địa bộ), Ma-ha-tăng-kỳ (Đại chúng bộ), Tứ phần (Đàm-vô-đức), và Pāli.(2) Tạp (Tương ưng), Trung, Trường, Tăng nhất: thứ tự ghi bởi Tì-nại-da tạp sự của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ.Trung gian còn có những thay đổi...---Ghi chú 1. Bộ Tăng Nhất A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt, cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này..

  •  
    431

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 11 - KINH BỘ XITĂNG NHẤT A-HÀM, Quyển 2. Việt dịch & chú TUỆ SỸ - THÍCH ĐỨC THẮNGTăng nhất A-hàm (Skt. Ekottarāgama) được kể là bộ thứ tư trong bốn A-hàm. Thứ tự này không nhất trí giữa các bộ phái, tùy theo mức độ trọng thị đối với mỗi bộ.Phật giáo sau khi phân thành các bộ phái, mỗi bộ hầu như đều có riêng một hệ thống Thánh điển. Điều có thể nói hầu như khẳng định rằng tất cả các hệ Thánh điển này đều là phiên bản của một hệ Thánh điển nguyên thủy, mà các bộ cùng ghi nhận như nhau, được kết tập lần đầu tiên tại thành Vương Xá bởi năm trăm Đại A-la-hán. Đây được cho là hệ chính thống. Nhưng vẫn có nhiều dấu hiệu cho thấy một số ý kiến không nhất định thừa nhận toàn bộ Phật ngôn được kết tập bởi Đại hội này là hoàn toàn trung thực. Ý kiến tương phản giữa Đại Ca-diếp và Phú-lâu-na sau kết quả được công bố, như được ghi chép trong luật Tứ phần1, cũng như trong Tiểu phẩm Luật tạng Pāli, chứng tỏ điều này. Dầu sao, ý nghĩa chính thống cần được trọng thị, vì sự hòa hiệp của Tăng đoàn sau khi đức Phật tịch diệt.Hình thức Đại hội, cũng như nội dung kết tập, theo ghi chép trong các tài liệu Hán tạng và Pāli hiện có, trên đại thể đều nhất trí. Chính do điều này mà có thể tin tưởng rằng Thánh điển truyền thừa riêng biệt của các bộ phái xuất xứ từ một hệ nguyên thủy và được thừa nhận bởi đại đa số là chính thống. Tất nhiên một số khác biệt phải có, theo cách nhìn của mỗi bộ phái. Điểm khác biệt quan trọng cần nói ở đây, trước hết, là thứ tự các kinh.Một cách tổng quát, có hai loại thứ tự được ghi nhận: (1) Trường, Trung, Tạp, Tăng nhất: thứ tự này được ghi chép trong Luật tạng của các bộ Ngũ phần (Hóa địa bộ), Ma-ha-tăng-kỳ (Đại chúng bộ), Tứ phần (Đàm-vô-đức), và Pāli.(2) Tạp (Tương ưng), Trung, Trường, Tăng nhất: thứ tự ghi bởi Tì-nại-da tạp sự của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ.Trung gian còn có những thay đổi...---Ghi chú 1. Bộ Tăng Nhất A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt, cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    341

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 11 - KINH BỘ XITĂNG NHẤT A-HÀM, Quyển 2. Việt dịch & chú TUỆ SỸ - THÍCH ĐỨC THẮNGTăng nhất A-hàm (Skt. Ekottarāgama) được kể là bộ thứ tư trong bốn A-hàm. Thứ tự này không nhất trí giữa các bộ phái, tùy theo mức độ trọng thị đối với mỗi bộ.Phật giáo sau khi phân thành các bộ phái, mỗi bộ hầu như đều có riêng một hệ thống Thánh điển. Điều có thể nói hầu như khẳng định rằng tất cả các hệ Thánh điển này đều là phiên bản của một hệ Thánh điển nguyên thủy, mà các bộ cùng ghi nhận như nhau, được kết tập lần đầu tiên tại thành Vương Xá bởi năm trăm Đại A-la-hán. Đây được cho là hệ chính thống. Nhưng vẫn có nhiều dấu hiệu cho thấy một số ý kiến không nhất định thừa nhận toàn bộ Phật ngôn được kết tập bởi Đại hội này là hoàn toàn trung thực. Ý kiến tương phản giữa Đại Ca-diếp và Phú-lâu-na sau kết quả được công bố, như được ghi chép trong luật Tứ phần1, cũng như trong Tiểu phẩm Luật tạng Pāli, chứng tỏ điều này. Dầu sao, ý nghĩa chính thống cần được trọng thị, vì sự hòa hiệp của Tăng đoàn sau khi đức Phật tịch diệt.Hình thức Đại hội, cũng như nội dung kết tập, theo ghi chép trong các tài liệu Hán tạng và Pāli hiện có, trên đại thể đều nhất trí. Chính do điều này mà có thể tin tưởng rằng Thánh điển truyền thừa riêng biệt của các bộ phái xuất xứ từ một hệ nguyên thủy và được thừa nhận bởi đại đa số là chính thống. Tất nhiên một số khác biệt phải có, theo cách nhìn của mỗi bộ phái. Điểm khác biệt quan trọng cần nói ở đây, trước hết, là thứ tự các kinh.Một cách tổng quát, có hai loại thứ tự được ghi nhận: (1) Trường, Trung, Tạp, Tăng nhất: thứ tự này được ghi chép trong Luật tạng của các bộ Ngũ phần (Hóa địa bộ), Ma-ha-tăng-kỳ (Đại chúng bộ), Tứ phần (Đàm-vô-đức), và Pāli.(2) Tạp (Tương ưng), Trung, Trường, Tăng nhất: thứ tự ghi bởi Tì-nại-da tạp sự của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ.Trung gian còn có những thay đổi...---Ghi chú 1. Bộ Tăng Nhất A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt, cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    431

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 10 - KINH BỘ XTĂNG NHẤT A-HÀM, Quyển 1. Việt dịch & chú TUỆ SỸ - THÍCH ĐỨC THẮNGTăng nhất A-hàm (Skt. Ekottarāgama) được kể là bộ thứ tư trong bốn A-hàm. Thứ tự này không nhất trí giữa các bộ phái, tùy theo mức độ trọng thị đối với mỗi bộ.Phật giáo sau khi phân thành các bộ phái, mỗi bộ hầu như đều có riêng một hệ thống Thánh điển. Điều có thể nói hầu như khẳng định rằng tất cả các hệ Thánh điển này đều là phiên bản của một hệ Thánh điển nguyên thủy, mà các bộ cùng ghi nhận như nhau, được kết tập lần đầu tiên tại thành Vương Xá bởi năm trăm Đại A-la-hán. Đây được cho là hệ chính thống. Nhưng vẫn có nhiều dấu hiệu cho thấy một số ý kiến không nhất định thừa nhận toàn bộ Phật ngôn được kết tập bởi Đại hội này là hoàn toàn trung thực. Ý kiến tương phản giữa Đại Ca-diếp và Phú-lâu-na sau kết quả được công bố, như được ghi chép trong luật Tứ phần1, cũng như trong Tiểu phẩm Luật tạng Pāli, chứng tỏ điều này. Dầu sao, ý nghĩa chính thống cần được trọng thị, vì sự hòa hiệp của Tăng đoàn sau khi đức Phật tịch diệt.Hình thức Đại hội, cũng như nội dung kết tập, theo ghi chép trong các tài liệu Hán tạng và Pāli hiện có, trên đại thể đều nhất trí. Chính do điều này mà có thể tin tưởng rằng Thánh điển truyền thừa riêng biệt của các bộ phái xuất xứ từ một hệ nguyên thủy và được thừa nhận bởi đại đa số là chính thống. Tất nhiên một số khác biệt phải có, theo cách nhìn của mỗi bộ phái. Điểm khác biệt quan trọng cần nói ở đây, trước hết, là thứ tự các kinh.Một cách tổng quát, có hai loại thứ tự được ghi nhận: (1) Trường, Trung, Tạp, Tăng nhất: thứ tự này được ghi chép trong Luật tạng của các bộ Ngũ phần (Hóa địa bộ), Ma-ha-tăng-kỳ (Đại chúng bộ), Tứ phần (Đàm-vô-đức), và Pāli.(2) Tạp (Tương ưng), Trung, Trường, Tăng nhất: thứ tự ghi bởi Tì-nại-da tạp sự của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ.Trung gian còn có những thay đổi...---Ghi chú 1. Bộ Tăng Nhất A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt, cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    341

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 10 - KINH BỘ XTĂNG NHẤT A-HÀM, Quyển 1. Việt dịch & chú TUỆ SỸ - THÍCH ĐỨC THẮNGTăng nhất A-hàm (Skt. Ekottarāgama) được kể là bộ thứ tư trong bốn A-hàm. Thứ tự này không nhất trí giữa các bộ phái, tùy theo mức độ trọng thị đối với mỗi bộ.Phật giáo sau khi phân thành các bộ phái, mỗi bộ hầu như đều có riêng một hệ thống Thánh điển. Điều có thể nói hầu như khẳng định rằng tất cả các hệ Thánh điển này đều là phiên bản của một hệ Thánh điển nguyên thủy, mà các bộ cùng ghi nhận như nhau, được kết tập lần đầu tiên tại thành Vương Xá bởi năm trăm Đại A-la-hán. Đây được cho là hệ chính thống. Nhưng vẫn có nhiều dấu hiệu cho thấy một số ý kiến không nhất định thừa nhận toàn bộ Phật ngôn được kết tập bởi Đại hội này là hoàn toàn trung thực. Ý kiến tương phản giữa Đại Ca-diếp và Phú-lâu-na sau kết quả được công bố, như được ghi chép trong luật Tứ phần1, cũng như trong Tiểu phẩm Luật tạng Pāli, chứng tỏ điều này. Dầu sao, ý nghĩa chính thống cần được trọng thị, vì sự hòa hiệp của Tăng đoàn sau khi đức Phật tịch diệt.Hình thức Đại hội, cũng như nội dung kết tập, theo ghi chép trong các tài liệu Hán tạng và Pāli hiện có, trên đại thể đều nhất trí. Chính do điều này mà có thể tin tưởng rằng Thánh điển truyền thừa riêng biệt của các bộ phái xuất xứ từ một hệ nguyên thủy và được thừa nhận bởi đại đa số là chính thống. Tất nhiên một số khác biệt phải có, theo cách nhìn của mỗi bộ phái. Điểm khác biệt quan trọng cần nói ở đây, trước hết, là thứ tự các kinh.Một cách tổng quát, có hai loại thứ tự được ghi nhận: (1) Trường, Trung, Tạp, Tăng nhất: thứ tự này được ghi chép trong Luật tạng của các bộ Ngũ phần (Hóa địa bộ), Ma-ha-tăng-kỳ (Đại chúng bộ), Tứ phần (Đàm-vô-đức), và Pāli.(2) Tạp (Tương ưng), Trung, Trường, Tăng nhất: thứ tự ghi bởi Tì-nại-da tạp sự của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ.Trung gian còn có những thay đổi...---Ghi chú 1. Bộ Tăng Nhất A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt và chú thích. cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  • av Tue Sy
    281

    TĂNG NHẤT A-HÀM, Tổng Lục. TUỆ SỸ biên soạnTăng nhất A-hàm (Skt. Ekottarāgama) được kể là bộ thứ tư trong bốn A-hàm. Thứ tự này không nhất trí giữa các bộ phái, tùy theo mức độ trọng thị đối với mỗi bộ.Phật giáo sau khi phân thành các bộ phái, mỗi bộ hầu như đều có riêng một hệ thống Thánh điển. Điều có thể nói hầu như khẳng định rằng tất cả các hệ Thánh điển này đều là phiên bản của một hệ Thánh điển nguyên thủy, mà các bộ cùng ghi nhận như nhau, được kết tập lần đầu tiên tại thành Vương Xá bởi năm trăm Đại A-la-hán. Đây được cho là hệ chính thống. Nhưng vẫn có nhiều dấu hiệu cho thấy một số ý kiến không nhất định thừa nhận toàn bộ Phật ngôn được kết tập bởi Đại hội này là hoàn toàn trung thực. Ý kiến tương phản giữa Đại Ca-diếp và Phú-lâu-na sau kết quả được công bố, như được ghi chép trong luật Tứ phần1, cũng như trong Tiểu phẩm Luật tạng Pāli, chứng tỏ điều này. Dầu sao, ý nghĩa chính thống cần được trọng thị, vì sự hòa hiệp của Tăng đoàn sau khi đức Phật tịch diệt.Hình thức Đại hội, cũng như nội dung kết tập, theo ghi chép trong các tài liệu Hán tạng và Pāli hiện có, trên đại thể đều nhất trí. Chính do điều này mà có thể tin tưởng rằng Thánh điển truyền thừa riêng biệt của các bộ phái xuất xứ từ một hệ nguyên thủy và được thừa nhận bởi đại đa số là chính thống. Tất nhiên một số khác biệt phải có, theo cách nhìn của mỗi bộ phái. Điểm khác biệt quan trọng cần nói ở đây, trước hết, là thứ tự các kinh.Một cách tổng quát, có hai loại thứ tự được ghi nhận: (1) Trường, Trung, Tạp, Tăng nhất: thứ tự này được ghi chép trong Luật tạng của các bộ Ngũ phần (Hóa địa bộ), Ma-ha-tăng-kỳ (Đại chúng bộ), Tứ phần (Đàm-vô-đức), và Pāli.(2) Tạp (Tương ưng), Trung, Trường, Tăng nhất: thứ tự ghi bởi Tì-nại-da tạp sự của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ.Trung gian còn có những thay đổi...---Ghi chú 1. Bộ Tăng Nhất A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt, cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    341

    TRUNG A-HÀM, Quyển 1. Việt dịch & chú TUỆ SỸTrung A-hàm, bản Hán dịch của Cù-đàm Tăng-già-đề-bà 僧伽提婆, (Gautama Saṅghadeva) hiện hành được nói là Thánh điển của Hữu bộ (Sarvāstivāda). Do bởi Tăng-già-đề-bà vốn xuất thân từ Kaśmira (Kế-tân/ Ca-thấp-di-la); đây là thủ phủ, và cũng được xem là hệ chính thống, của Nhất thiết hữu bộ, do đó có thể khẳng định Trung A-hàm Hán dịch bởi Tăng-già-đề-bà cũng thuộc Hữu bộ. Điều này được phần lớn các nhà nghiên cứu hiện đại thừa nhận.Luật của các bộ phái, như Ngũ phần, Tăng-kỳ, Tứ phần, Thiện kiến, đều có quan điểm như nhau, theo đó, ngay trong đại hội kết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá các bộ loại Thánh điển nguyên thủy đã được định hình, trong đó, các kinh có lượng trung bình, không dài không ngắn được tập họp chung thành một bộ loại gọi là Trung. Định nghĩa này không tuyệt đối chính xác, xét theo hình thức các kinh thuộc Trung A-hàm bản Hán dịch hiện tại. Trong số các kinh được gọi là Trung, tương đương với các kinh được tìm thấy trong Majjhima-Nikāya, cũng có một số các kinh được tìm thấy tương đương trong Trường A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất, hoặc trong các bộ Dīgha-Nikāya, Samyutta-Nikāya, Khuddaka-Nikāya. Vì vậy, luật Tát-bà-đa tì-ni Tì-bà-sa của Hữu bộ nêu một định nghĩa khác: "Những nghĩa lý sâu xa được nói cho hàng chúng sinh lợi căn, tập hợp thành Trung A-hàm." Do bởi nguyên bản Phạn hay Sanskrit đã thất lạc, cũng không có bản dịch Tạng ngữ hoàn chỉnh tương đương, ngoại trừ một số Kinh đơn hành bản được tìm thấy trong luật Căn bản thuyết nhất thiết Hữu bộ (Mūlasarvāstivāda-vinaya) bản dịch Tạng ngữ. Toàn văn bản được xem là đầy đủ hiện chỉ tồn tại trong bản dịch Hán.Hiện nay cũng chưa có khảo cứu nào khả dĩ xác định hình thức tập thành nguyên thủy của Kinh này.Trong thời kỳ đầu, các kinh thuộc Trung A-hàm được dịch Hán sớm nhất có thể nói do bởi An Thế Cao 安世高, nay vẫn có thể đọc được trong Đại chánh tạng. Đây chỉ là bảy trong số 222 kinh hiện được biết.Nhìn chung, khởi đầu từ An Thế Cao, trong khoảng niên hiệu Kiến Hòa 2 đời Hậu Hán (tl. 148), cho đến Pháp Hiền 法賢, niên hiệu Hàm Ninh 4 đời Tống (tl. 1001), có tất cả 70 kinh đơn hành bản thuộc Trung A-hàm. (...)Ghi chú 1. Bộ Trung A-hàm gồm có 4 quyển (q.1-4) do Tuệ Sỹ dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    577

    ¿¿I T¿NG KINH VI¿T NAM - THANH V¿N T¿NG - T¿p 9 - KINH B¿ IXT¿P A-HÀM, Quy¿n 3. Vi¿t d¿ch & chú TU¿ S¿ - THÍCH ¿¿C TH¿NGT¿p A-hàm (Skt. Samyukta-¿gama), truy¿n th¿ng c¿a ph¿n l¿n các h¿c phái s¿ k¿ Ph¿t giáo, ngöi tr¿ H¿u b¿, li¿t kê là b¿ th¿ ba trong b¿n A-hàm, t¿¿ng ¿¿¿ng v¿i Samyutta thüc b¿ th¿ t¿ trong n¿m b¿ Nik¿ya (P¿li), ¿¿¿c biên t¿p trong ¿¿i h¿i k¿t t¿p l¿n th¿ nh¿t.Lüt Ma-ha T¿ng k¿, thüc ¿¿i chúng b¿ (Mah¿sägika), chép: "Tôn gi¿ A-nan t¿ng l¿i toàn b¿ Pháp t¿ng nh¿ v¿y. Nh¿ng kinh có v¿n cú dài ¿¿¿c t¿p h¿p thành m¿t b¿ g¿i là Tr¿¿ng A-hàm. V¿n cú v¿a, t¿p h¿p thành b¿ Trung A-hàm. V¿n cú t¿p, t¿p h¿p thành b¿ T¿p A-hàm. Các th¿ tài nh¿ C¿n t¿p, L¿c t¿p, Giác t¿p, ¿¿o t¿p, vân vân, ¿¿¿c g¿i là t¿p."Các b¿ Lüt khác, chép v¿ ¿¿i h¿i k¿t t¿p này, mà h¿u h¿t Hán d¿ch ¿¿u g¿i là ¿ "t¿p" v¿i gi¿i thích g¿n t¿¿ng t¿, nh¿ng không xác ngh¿a. T¿ "t¿p" ¿¿¿c gi¿i thích nh¿ v¿y không hoàn toàn có ngh¿a "pha t¿p" hay "t¿p lön" , ngh¿a là pha tr¿n nhi¿u th¿ linh tinh khác nhau vào m¿t gói. T¿ này ¿¿¿c th¿y xác ¿¿nh h¿n theo gi¿i thích c¿a Tì-ni m¿u kinh: "Trong ¿ó, t¿¿ng ¿ng (liên h¿) T¿-kheo, t¿¿ng ¿ng T¿-kheo-ni, t¿¿ng ¿ng ¿¿ Thích, t¿¿ng ¿ng ch¿ Thiên, t¿¿ng ¿ng Ph¿m Thiên; nh¿ng kinh nh¿ v¿y ¿¿¿c t¿p h¿p thành m¿t b¿ g¿i là T¿p A-hàm." Nói là t¿¿ng ¿ng T¿-kheo-ni, t¿¿ng ¿ng Ph¿m Thiên, vân vân, cho th¿y các t¿¿ng ¿¿¿ng c¿a chúng trong P¿li: Bhikkhun¿-samyutta, Brahma-samyutta. "T¿p" ¿¿¿c gi¿i thích nh¿ v¿y hàm ngh¿a "t¿¿ng ¿ng", ch¿ rõ nh¿ng kinh liên h¿ ¿¿n T¿-kheo, T¿-kheo-ni, ch¿ Thiên, vân vân ¿¿¿c t¿p h¿p thành m¿t b¿. Ngh¿a T¿nh và Huy¿n Trang ¿¿u hi¿u theo ngh¿a này, do ¿ó d¿ch là T¿¿ng ¿ng A-c¿p-ma. T¿ Sanskrit säyukta, nguyên là phân t¿ quá kh¿ th¿ ¿¿ng b¿i ¿¿ng t¿ c¿n sam-YUJ, có ngh¿a là k¿t h¿p, n¿i k¿t hai cái l¿i v¿i nhau nh¿ büc hai con bò vào trong m¿t c¿ xe kéo. Ý ngh¿a n¿i k¿t hay "t¿¿ng ¿ng" này ¿¿¿c th¿y rõ trong gi¿i thích c¿a H¿u b¿ tì-n¿i-da t¿p s¿. Theo ¿ó, nh¿ng kinh có n¿i dung liên h¿ (=t¿¿ng ¿ng) ¿¿n n¿m ün, ¿¿¿c t¿p h¿p thành "Ph¿m U¿n"; nh¿ng kinh có n¿i dung liên h¿ ¿¿n x¿, gi¿i, ¿¿¿c t¿p h¿p thành các ph¿m "X¿" và "Gi¿i".Ghi chú:1. B¿ T¿p A-hàm này g¿m có 3 quy¿n (q.1-3) do Tü S¿ và Thích ¿¿c Th¿ng d¿ch Vi¿t và chú thích; c¿ng 1 sách T¿ng L¿c do Tü S¿ biên sön.2. Toàn b¿ sách do H¿i ¿n Hành ¿¿i T¿ng Kinh Vi¿t Nam th¿c hi¿n ¿¿u ¿¿¿c ¿n hành phi l¿i nhün. V¿i tâm nguy¿n cúng d¿¿ng Pháp thí, H¿i ¿n Hành ¿TKVN l¿n l¿¿t in các Kinh Lüt Lün trên gi¿y t¿t và bìa dày t¿i các nhà in chuyên d¿ng ¿¿ cúng d¿¿ng th¿p ph¿¿ng. Ngoài ra, n¿u quý v¿ mün th¿nh Kinh sách theo nhu c¿u cá nhân mà không b¿ gián ¿ön, hay tr¿¿ng h¿p Kinh sách in ¿ã phân ph¿i h¿t, xin tùy ch¿n cách ¿¿t in sách ¿print on demand" n¿i ¿ây và t¿ nguy¿n tr¿ các chi phí. Giá niêm y¿t ¿ ¿ây là các chi phí t¿i thi¿u do các h¿ th¿ng phát hành qüc t¿ quy ¿¿nh, chúng tôi hoàn toàn không thu b¿t k¿ l¿i nhün nào trong Ph¿t s¿ này

  •  
    501

    ¿¿I T¿NG KINH VI¿T NAM - THANH V¿N T¿NG - T¿p 9 - KINH B¿ IXT¿P A-HÀM, Quy¿n 3. Vi¿t d¿ch & chú TU¿ S¿ - THÍCH ¿¿C TH¿NGT¿p A-hàm (Skt. Samyukta-¿gama), truy¿n th¿ng c¿a ph¿n l¿n các h¿c phái s¿ k¿ Ph¿t giáo, ngöi tr¿ H¿u b¿, li¿t kê là b¿ th¿ ba trong b¿n A-hàm, t¿¿ng ¿¿¿ng v¿i Samyutta thüc b¿ th¿ t¿ trong n¿m b¿ Nik¿ya (P¿li), ¿¿¿c biên t¿p trong ¿¿i h¿i k¿t t¿p l¿n th¿ nh¿t.Lüt Ma-ha T¿ng k¿, thüc ¿¿i chúng b¿ (Mah¿sägika), chép: "Tôn gi¿ A-nan t¿ng l¿i toàn b¿ Pháp t¿ng nh¿ v¿y. Nh¿ng kinh có v¿n cú dài ¿¿¿c t¿p h¿p thành m¿t b¿ g¿i là Tr¿¿ng A-hàm. V¿n cú v¿a, t¿p h¿p thành b¿ Trung A-hàm. V¿n cú t¿p, t¿p h¿p thành b¿ T¿p A-hàm. Các th¿ tài nh¿ C¿n t¿p, L¿c t¿p, Giác t¿p, ¿¿o t¿p, vân vân, ¿¿¿c g¿i là t¿p."Các b¿ Lüt khác, chép v¿ ¿¿i h¿i k¿t t¿p này, mà h¿u h¿t Hán d¿ch ¿¿u g¿i là ¿ "t¿p" v¿i gi¿i thích g¿n t¿¿ng t¿, nh¿ng không xác ngh¿a. T¿ "t¿p" ¿¿¿c gi¿i thích nh¿ v¿y không hoàn toàn có ngh¿a "pha t¿p" hay "t¿p lön" , ngh¿a là pha tr¿n nhi¿u th¿ linh tinh khác nhau vào m¿t gói. T¿ này ¿¿¿c th¿y xác ¿¿nh h¿n theo gi¿i thích c¿a Tì-ni m¿u kinh: "Trong ¿ó, t¿¿ng ¿ng (liên h¿) T¿-kheo, t¿¿ng ¿ng T¿-kheo-ni, t¿¿ng ¿ng ¿¿ Thích, t¿¿ng ¿ng ch¿ Thiên, t¿¿ng ¿ng Ph¿m Thiên; nh¿ng kinh nh¿ v¿y ¿¿¿c t¿p h¿p thành m¿t b¿ g¿i là T¿p A-hàm." Nói là t¿¿ng ¿ng T¿-kheo-ni, t¿¿ng ¿ng Ph¿m Thiên, vân vân, cho th¿y các t¿¿ng ¿¿¿ng c¿a chúng trong P¿li: Bhikkhun¿-samyutta, Brahma-samyutta. "T¿p" ¿¿¿c gi¿i thích nh¿ v¿y hàm ngh¿a "t¿¿ng ¿ng", ch¿ rõ nh¿ng kinh liên h¿ ¿¿n T¿-kheo, T¿-kheo-ni, ch¿ Thiên, vân vân ¿¿¿c t¿p h¿p thành m¿t b¿. Ngh¿a T¿nh và Huy¿n Trang ¿¿u hi¿u theo ngh¿a này, do ¿ó d¿ch là T¿¿ng ¿ng A-c¿p-ma. T¿ Sanskrit säyukta, nguyên là phân t¿ quá kh¿ th¿ ¿¿ng b¿i ¿¿ng t¿ c¿n sam-YUJ, có ngh¿a là k¿t h¿p, n¿i k¿t hai cái l¿i v¿i nhau nh¿ büc hai con bò vào trong m¿t c¿ xe kéo. Ý ngh¿a n¿i k¿t hay "t¿¿ng ¿ng" này ¿¿¿c th¿y rõ trong gi¿i thích c¿a H¿u b¿ tì-n¿i-da t¿p s¿. Theo ¿ó, nh¿ng kinh có n¿i dung liên h¿ (=t¿¿ng ¿ng) ¿¿n n¿m ün, ¿¿¿c t¿p h¿p thành "Ph¿m U¿n"; nh¿ng kinh có n¿i dung liên h¿ ¿¿n x¿, gi¿i, ¿¿¿c t¿p h¿p thành các ph¿m "X¿" và "Gi¿i".Ghi chú:1. B¿ T¿p A-hàm này g¿m có 3 quy¿n (q.1-3) do Tü S¿ và Thích ¿¿c Th¿ng d¿ch Vi¿t và chú thích; c¿ng 1 sách T¿ng L¿c do Tü S¿ biên sön.2. Toàn b¿ sách do H¿i ¿n Hành ¿¿i T¿ng Kinh Vi¿t Nam th¿c hi¿n ¿¿u ¿¿¿c ¿n hành phi l¿i nhün. V¿i tâm nguy¿n cúng d¿¿ng Pháp thí, H¿i ¿n Hành ¿TKVN l¿n l¿¿t in các Kinh Lüt Lün trên gi¿y t¿t và bìa dày t¿i các nhà in chuyên d¿ng ¿¿ cúng d¿¿ng th¿p ph¿¿ng. Ngoài ra, n¿u quý v¿ mün th¿nh Kinh sách theo nhu c¿u cá nhân mà không b¿ gián ¿ön, hay tr¿¿ng h¿p Kinh sách in ¿ã phân ph¿i h¿t, xin tùy ch¿n cách ¿¿t in sách ¿print on demand" n¿i ¿ây và t¿ nguy¿n tr¿ các chi phí. Giá niêm y¿t ¿ ¿ây là các chi phí t¿i thi¿u do các h¿ th¿ng phát hành qüc t¿ quy ¿¿nh, chúng tôi hoàn toàn không thu b¿t k¿ l¿i nhün nào trong Ph¿t s¿ này.

  •  
    547

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 7 - KINH BỘ VIITẠP A-HÀM, Quyển 1. Việt dịch & chú TUỆ SỸ - THÍCH ĐỨC THẮNGTạp A-hàm (Skt. Samyukta-āgama), truyền thống của phần lớn các học phái sơ kỳ Phật giáo, ngoại trừ Hữu bộ, liệt kê là bộ thứ ba trong bốn A-hàm, tương đương với Samyutta thuộc bộ thứ tư trong năm bộ Nikāya (Pāli), được biên tập trong đại hội kết tập lần thứ nhất.Luật Ma-ha Tăng kỳ, thuộc Đại chúng bộ (Mahāsaṅgika), chép: "Tôn giả A-nan tụng lại toàn bộ Pháp tạng như vậy. Những kinh có văn cú dài được tập hợp thành một bộ gọi là Trường A-hàm. Văn cú vừa, tập hợp thành bộ Trung A-hàm. Văn cú tạp, tập hợp thành bộ Tạp A-hàm. Các thể tài như Căn tạp, Lực tạp, Giác tạp, Đạo tạp, vân vân, được gọi là tạp." Các bộ Luật khác, chép về đại hội kết tập này, mà hầu hết Hán dịch đều gọi là 雜 "tạp" với giải thích gần tương tợ, nhưng không xác nghĩa. Từ "tạp" được giải thích như vậy không hoàn toàn có nghĩa "pha tạp" hay "tạp loạn", nghĩa là pha trộn nhiều thứ linh tinh khác nhau vào một gói. Từ này được thấy xác định hơn theo giải thích của Tì-ni mẫu kinh: "Trong đó, tương ưng (liên hệ) Tỳ-kheo, tương ưng Tỳ-kheo-ni, tương ưng Đế Thích, tương ưng chư Thiên, tương ưng Phạm Thiên; những kinh như vậy được tập hợp thành một bộ gọi là Tạp A-hàm." Nói là tương ưng Tỳ-kheo-ni, tương ưng Phạm Thiên, vân vân, cho thấy các tương đương của chúng trong Pāli: Bhikkhunī-samyutta, Brahma-samyutta. "Tạp" được giải thích như vậy hàm nghĩa "tương ưng", chỉ rõ những kinh liên hệ đến Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, chư Thiên, vân vân được tập hợp thành một bộ. Nghĩa Tịnh và Huyền Trang đều hiểu theo nghĩa này, do đó dịch là Tương ưng A-cấp-ma. Từ Sanskrit saṃyukta, nguyên là phân từ quá khứ thụ động bởi động từ căn sam-YUJ, có nghĩa là kết hợp, nối kết hai cái lại với nhau như buộc hai con bò vào trong một cỗ xe kéo. Ý nghĩa nối kết hay "tương ưng" này được thấy rõ trong giải thích của Hữu bộ tì-nại-da tạp sự. Theo đó, những kinh có nội dung liên hệ (=tương ưng) đến năm uẩn, được tập hợp thành "Phẩm Uẩn"; những kinh có nội dung liên hệ đến xứ, giới, được tập hợp thành các phẩm "Xứ" và "Giới".Ghi chú 1. Bộ Tạp A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    467

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 7 - KINH BỘ VIITẠP A-HÀM, Quyển 1. Việt dịch & chú TUỆ SỸ - THÍCH ĐỨC THẮNGTạp A-hàm (Skt. Samyukta-āgama), truyền thống của phần lớn các học phái sơ kỳ Phật giáo, ngoại trừ Hữu bộ, liệt kê là bộ thứ ba trong bốn A-hàm, tương đương với Samyutta thuộc bộ thứ tư trong năm bộ Nikāya (Pāli), được biên tập trong đại hội kết tập lần thứ nhất.Luật Ma-ha Tăng kỳ, thuộc Đại chúng bộ (Mahāsaṅgika), chép: "Tôn giả A-nan tụng lại toàn bộ Pháp tạng như vậy. Những kinh có văn cú dài được tập hợp thành một bộ gọi là Trường A-hàm. Văn cú vừa, tập hợp thành bộ Trung A-hàm. Văn cú tạp, tập hợp thành bộ Tạp A-hàm. Các thể tài như Căn tạp, Lực tạp, Giác tạp, Đạo tạp, vân vân, được gọi là tạp." Các bộ Luật khác, chép về đại hội kết tập này, mà hầu hết Hán dịch đều gọi là 雜 "tạp" với giải thích gần tương tợ, nhưng không xác nghĩa. Từ "tạp" được giải thích như vậy không hoàn toàn có nghĩa "pha tạp" hay "tạp loạn", nghĩa là pha trộn nhiều thứ linh tinh khác nhau vào một gói. Từ này được thấy xác định hơn theo giải thích của Tì-ni mẫu kinh: "Trong đó, tương ưng (liên hệ) Tỳ-kheo, tương ưng Tỳ-kheo-ni, tương ưng Đế Thích, tương ưng chư Thiên, tương ưng Phạm Thiên; những kinh như vậy được tập hợp thành một bộ gọi là Tạp A-hàm." Nói là tương ưng Tỳ-kheo-ni, tương ưng Phạm Thiên, vân vân, cho thấy các tương đương của chúng trong Pāli: Bhikkhunī-samyutta, Brahma-samyutta. "Tạp" được giải thích như vậy hàm nghĩa "tương ưng", chỉ rõ những kinh liên hệ đến Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, chư Thiên, vân vân được tập hợp thành một bộ. Nghĩa Tịnh và Huyền Trang đều hiểu theo nghĩa này, do đó dịch là Tương ưng A-cấp-ma. Từ Sanskrit saṃyukta, nguyên là phân từ quá khứ thụ động bởi động từ căn sam-YUJ, có nghĩa là kết hợp, nối kết hai cái lại với nhau như buộc hai con bò vào trong một cỗ xe kéo. Ý nghĩa nối kết hay "tương ưng" này được thấy rõ trong giải thích của Hữu bộ tì-nại-da tạp sự. Theo đó, những kinh có nội dung liên hệ (=tương ưng) đến năm uẩn, được tập hợp thành "Phẩm Uẩn"; những kinh có nội dung liên hệ đến xứ, giới, được tập hợp thành các phẩm "Xứ" và "Giới".Ghi chú 1. Bộ Tạp A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    467

    ¿¿I T¿NG KINH VI¿T NAM - THANH V¿N T¿NG - T¿p 8 - KINH B¿ VIIIT¿P A-HÀM, Quy¿n 2. Vi¿t d¿ch & chú TU¿ S¿ - THÍCH ¿¿C TH¿NGT¿p A-hàm (Skt. Samyukta-¿gama), truy¿n th¿ng c¿a ph¿n l¿n các h¿c phái s¿ k¿ Ph¿t giáo, ngöi tr¿ H¿u b¿, li¿t kê là b¿ th¿ ba trong b¿n A-hàm, t¿¿ng ¿¿¿ng v¿i Samyutta thüc b¿ th¿ t¿ trong n¿m b¿ Nik¿ya (P¿li), ¿¿¿c biên t¿p trong ¿¿i h¿i k¿t t¿p l¿n th¿ nh¿t.Lüt Ma-ha T¿ng k¿, thüc ¿¿i chúng b¿ (Mah¿sägika), chép: "Tôn gi¿ A-nan t¿ng l¿i toàn b¿ Pháp t¿ng nh¿ v¿y. Nh¿ng kinh có v¿n cú dài ¿¿¿c t¿p h¿p thành m¿t b¿ g¿i là Tr¿¿ng A-hàm. V¿n cú v¿a, t¿p h¿p thành b¿ Trung A-hàm. V¿n cú t¿p, t¿p h¿p thành b¿ T¿p A-hàm. Các th¿ tài nh¿ C¿n t¿p, L¿c t¿p, Giác t¿p, ¿¿o t¿p, vân vân, ¿¿¿c g¿i là t¿p."Các b¿ Lüt khác, chép v¿ ¿¿i h¿i k¿t t¿p này, mà h¿u h¿t Hán d¿ch ¿¿u g¿i là ¿ "t¿p" v¿i gi¿i thích g¿n t¿¿ng t¿, nh¿ng không xác ngh¿a. T¿ "t¿p" ¿¿¿c gi¿i thích nh¿ v¿y không hoàn toàn có ngh¿a "pha t¿p" hay "t¿p lön" , ngh¿a là pha tr¿n nhi¿u th¿ linh tinh khác nhau vào m¿t gói. T¿ này ¿¿¿c th¿y xác ¿¿nh h¿n theo gi¿i thích c¿a Tì-ni m¿u kinh: "Trong ¿ó, t¿¿ng ¿ng (liên h¿) T¿-kheo, t¿¿ng ¿ng T¿-kheo-ni, t¿¿ng ¿ng ¿¿ Thích, t¿¿ng ¿ng ch¿ Thiên, t¿¿ng ¿ng Ph¿m Thiên; nh¿ng kinh nh¿ v¿y ¿¿¿c t¿p h¿p thành m¿t b¿ g¿i là T¿p A-hàm." Nói là t¿¿ng ¿ng T¿-kheo-ni, t¿¿ng ¿ng Ph¿m Thiên, vân vân, cho th¿y các t¿¿ng ¿¿¿ng c¿a chúng trong P¿li: Bhikkhun¿-samyutta, Brahma-samyutta. "T¿p" ¿¿¿c gi¿i thích nh¿ v¿y hàm ngh¿a "t¿¿ng ¿ng", ch¿ rõ nh¿ng kinh liên h¿ ¿¿n T¿-kheo, T¿-kheo-ni, ch¿ Thiên, vân vân ¿¿¿c t¿p h¿p thành m¿t b¿. Ngh¿a T¿nh và Huy¿n Trang ¿¿u hi¿u theo ngh¿a này, do ¿ó d¿ch là T¿¿ng ¿ng A-c¿p-ma. T¿ Sanskrit säyukta, nguyên là phân t¿ quá kh¿ th¿ ¿¿ng b¿i ¿¿ng t¿ c¿n sam-YUJ, có ngh¿a là k¿t h¿p, n¿i k¿t hai cái l¿i v¿i nhau nh¿ büc hai con bò vào trong m¿t c¿ xe kéo. Ý ngh¿a n¿i k¿t hay "t¿¿ng ¿ng" này ¿¿¿c th¿y rõ trong gi¿i thích c¿a H¿u b¿ tì-n¿i-da t¿p s¿. Theo ¿ó, nh¿ng kinh có n¿i dung liên h¿ (=t¿¿ng ¿ng) ¿¿n n¿m ün, ¿¿¿c t¿p h¿p thành "Ph¿m U¿n"; nh¿ng kinh có n¿i dung liên h¿ ¿¿n x¿, gi¿i, ¿¿¿c t¿p h¿p thành các ph¿m "X¿" và "Gi¿i".Ghi chú:1. B¿ T¿p A-hàm này g¿m có 3 quy¿n (q.1-3) do Tü S¿ và Thích ¿¿c Th¿ng d¿ch Vi¿t và chú thích; c¿ng 1 sách T¿ng L¿c do Tü S¿ biên sön.2. Toàn b¿ sách do H¿i ¿n Hành ¿¿i T¿ng Kinh Vi¿t Nam th¿c hi¿n ¿¿u ¿¿¿c ¿n hành phi l¿i nhün. V¿i tâm nguy¿n cúng d¿¿ng Pháp thí, H¿i ¿n Hành ¿TKVN l¿n l¿¿t in các Kinh Lüt Lün trên gi¿y t¿t và bìa dày t¿i các nhà in chuyên d¿ng ¿¿ cúng d¿¿ng th¿p ph¿¿ng. Ngoài ra, n¿u quý v¿ mün th¿nh Kinh sách theo nhu c¿u cá nhân mà không b¿ gián ¿ön, hay tr¿¿ng h¿p Kinh sách in ¿ã phân ph¿i h¿t, xin tùy ch¿n cách ¿¿t in sách ¿print on demand" n¿i ¿ây và t¿ nguy¿n tr¿ các chi phí. Giá niêm y¿t ¿ ¿ây là các chi phí t¿i thi¿u do các h¿ th¿ng phát hành qüc t¿ quy ¿¿nh, chúng tôi hoàn toàn không thu b¿t k¿ l¿i nhün nào trong Ph¿t s¿ này.

  • av Tue Sy
    297

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 9 - KINH BỘ IXTẠP A-HÀM, Tổng Lục. TUỆ SỸ biên soạnTạp A-hàm (Skt. Samyukta-āgama), truyền thống của phần lớn các học phái sơ kỳ Phật giáo, ngoại trừ Hữu bộ, liệt kê là bộ thứ ba trong bốn A-hàm, tương đương với Samyutta thuộc bộ thứ tư trong năm bộ Nikāya (Pāli), được biên tập trong đại hội kết tập lần thứ nhất.Luật Ma-ha Tăng kỳ, thuộc Đại chúng bộ (Mahāsaṅgika), chép: "Tôn giả A-nan tụng lại toàn bộ Pháp tạng như vậy. Những kinh có văn cú dài được tập hợp thành một bộ gọi là Trường A-hàm. Văn cú vừa, tập hợp thành bộ Trung A-hàm. Văn cú tạp, tập hợp thành bộ Tạp A-hàm. Các thể tài như Căn tạp, Lực tạp, Giác tạp, Đạo tạp, vân vân, được gọi là tạp." Các bộ Luật khác, chép về đại hội kết tập này, mà hầu hết Hán dịch đều gọi là 雜 "tạp" với giải thích gần tương tợ, nhưng không xác nghĩa. Từ "tạp" được giải thích như vậy không hoàn toàn có nghĩa "pha tạp" hay "tạp loạn", nghĩa là pha trộn nhiều thứ linh tinh khác nhau vào một gói. Từ này được thấy xác định hơn theo giải thích của Tì-ni mẫu kinh: "Trong đó, tương ưng (liên hệ) Tỳ-kheo, tương ưng Tỳ-kheo-ni, tương ưng Đế Thích, tương ưng chư Thiên, tương ưng Phạm Thiên; những kinh như vậy được tập hợp thành một bộ gọi là Tạp A-hàm." Nói là tương ưng Tỳ-kheo-ni, tương ưng Phạm Thiên, vân vân, cho thấy các tương đương của chúng trong Pāli: Bhikkhunī-samyutta, Brahma-samyutta. "Tạp" được giải thích như vậy hàm nghĩa "tương ưng", chỉ rõ những kinh liên hệ đến Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, chư Thiên, vân vân được tập hợp thành một bộ. Nghĩa Tịnh và Huyền Trang đều hiểu theo nghĩa này, do đó dịch là Tương ưng A-cấp-ma. Từ Sanskrit saṃyukta, nguyên là phân từ quá khứ thụ động bởi động từ căn sam-YUJ, có nghĩa là kết hợp, nối kết hai cái lại với nhau như buộc hai con bò vào trong một cỗ xe kéo. Ý nghĩa nối kết hay "tương ưng" này được thấy rõ trong giải thích của Hữu bộ tì-nại-da tạp sự. Theo đó, những kinh có nội dung liên hệ (=tương ưng) đến năm uẩn, được tập hợp thành "Phẩm Uẩn"; những kinh có nội dung liên hệ đến xứ, giới, được tập hợp thành các phẩm "Xứ" và "Giới".Ghi chú 1. Bộ Tạp A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt, cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  • av Tue Sy
    171

    ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM - THANH VĂN TẠNG - Tập 9 - KINH BỘ IXTẠP A-HÀM, Tổng Lục. TUỆ SỸ biên soạnTạp A-hàm (Skt. Samyukta-āgama), truyền thống của phần lớn các học phái sơ kỳ Phật giáo, ngoại trừ Hữu bộ, liệt kê là bộ thứ ba trong bốn A-hàm, tương đương với Samyutta thuộc bộ thứ tư trong năm bộ Nikāya (Pāli), được biên tập trong đại hội kết tập lần thứ nhất.Luật Ma-ha Tăng kỳ, thuộc Đại chúng bộ (Mahāsaṅgika), chép: "Tôn giả A-nan tụng lại toàn bộ Pháp tạng như vậy. Những kinh có văn cú dài được tập hợp thành một bộ gọi là Trường A-hàm. Văn cú vừa, tập hợp thành bộ Trung A-hàm. Văn cú tạp, tập hợp thành bộ Tạp A-hàm. Các thể tài như Căn tạp, Lực tạp, Giác tạp, Đạo tạp, vân vân, được gọi là tạp." Các bộ Luật khác, chép về đại hội kết tập này, mà hầu hết Hán dịch đều gọi là 雜 "tạp" với giải thích gần tương tợ, nhưng không xác nghĩa. Từ "tạp" được giải thích như vậy không hoàn toàn có nghĩa "pha tạp" hay "tạp loạn", nghĩa là pha trộn nhiều thứ linh tinh khác nhau vào một gói. Từ này được thấy xác định hơn theo giải thích của Tì-ni mẫu kinh: "Trong đó, tương ưng (liên hệ) Tỳ-kheo, tương ưng Tỳ-kheo-ni, tương ưng Đế Thích, tương ưng chư Thiên, tương ưng Phạm Thiên; những kinh như vậy được tập hợp thành một bộ gọi là Tạp A-hàm." Nói là tương ưng Tỳ-kheo-ni, tương ưng Phạm Thiên, vân vân, cho thấy các tương đương của chúng trong Pāli: Bhikkhunī-samyutta, Brahma-samyutta. "Tạp" được giải thích như vậy hàm nghĩa "tương ưng", chỉ rõ những kinh liên hệ đến Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, chư Thiên, vân vân được tập hợp thành một bộ. Nghĩa Tịnh và Huyền Trang đều hiểu theo nghĩa này, do đó dịch là Tương ưng A-cấp-ma. Từ Sanskrit saṃyukta, nguyên là phân từ quá khứ thụ động bởi động từ căn sam-YUJ, có nghĩa là kết hợp, nối kết hai cái lại với nhau như buộc hai con bò vào trong một cỗ xe kéo. Ý nghĩa nối kết hay "tương ưng" này được thấy rõ trong giải thích của Hữu bộ tì-nại-da tạp sự. Theo đó, những kinh có nội dung liên hệ (=tương ưng) đến năm uẩn, được tập hợp thành "Phẩm Uẩn"; những kinh có nội dung liên hệ đến xứ, giới, được tập hợp thành các phẩm "Xứ" và "Giới".Ghi chú 1. Bộ Tạp A-hàm này gồm có 3 quyển (q.1-3) do Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    467

    TRUNG A-HÀM, Quyển 2. Việt dịch & chú TUỆ SỸTrung A-hàm, bản Hán dịch của Cù-đàm Tăng-già-đề-bà 僧伽提婆, (Gautama Saṅghadeva) hiện hành được nói là Thánh điển của Hữu bộ (Sarvāstivāda). Do bởi Tăng-già-đề-bà vốn xuất thân từ Kaśmira (Kế-tân/ Ca-thấp-di-la); đây là thủ phủ, và cũng được xem là hệ chính thống, của Nhất thiết hữu bộ, do đó có thể khẳng định Trung A-hàm Hán dịch bởi Tăng-già-đề-bà cũng thuộc Hữu bộ. Điều này được phần lớn các nhà nghiên cứu hiện đại thừa nhận.Luật của các bộ phái, như Ngũ phần, Tăng-kỳ, Tứ phần, Thiện kiến, đều có quan điểm như nhau, theo đó, ngay trong đại hội kết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá các bộ loại Thánh điển nguyên thủy đã được định hình, trong đó, các kinh có lượng trung bình, không dài không ngắn được tập họp chung thành một bộ loại gọi là Trung. Định nghĩa này không tuyệt đối chính xác, xét theo hình thức các kinh thuộc Trung A-hàm bản Hán dịch hiện tại. Trong số các kinh được gọi là Trung, tương đương với các kinh được tìm thấy trong Majjhima-Nikāya, cũng có một số các kinh được tìm thấy tương đương trong Trường A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất, hoặc trong các bộ Dīgha-Nikāya, Samyutta-Nikāya, Khuddaka-Nikāya. Vì vậy, luật Tát-bà-đa tì-ni Tì-bà-sa của Hữu bộ nêu một định nghĩa khác: "Những nghĩa lý sâu xa được nói cho hàng chúng sinh lợi căn, tập hợp thành Trung A-hàm." Do bởi nguyên bản Phạn hay Sanskrit đã thất lạc, cũng không có bản dịch Tạng ngữ hoàn chỉnh tương đương, ngoại trừ một số Kinh đơn hành bản được tìm thấy trong luật Căn bản thuyết nhất thiết Hữu bộ (Mūlasarvāstivāda-vinaya) bản dịch Tạng ngữ. Toàn văn bản được xem là đầy đủ hiện chỉ tồn tại trong bản dịch Hán.Hiện nay cũng chưa có khảo cứu nào khả dĩ xác định hình thức tập thành nguyên thủy của Kinh này.Trong thời kỳ đầu, các kinh thuộc Trung A-hàm được dịch Hán sớm nhất có thể nói do bởi An Thế Cao 安世高, nay vẫn có thể đọc được trong Đại chánh tạng. Đây chỉ là bảy trong số 222 kinh hiện được biết.Nhìn chung, khởi đầu từ An Thế Cao, trong khoảng niên hiệu Kiến Hòa 2 đời Hậu Hán (tl. 148), cho đến Pháp Hiền 法賢, niên hiệu Hàm Ninh 4 đời Tống (tl. 1001), có tất cả 70 kinh đơn hành bản thuộc Trung A-hàm. (...)Ghi chú 1. Bộ Trung A-hàm gồm có 4 Kinh (quyển 1-4) do Tuệ Sỹ dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    357

    TRUNG A-HÀM, Quyển 2. Việt dịch & chú TUỆ SỸTrung A-hàm, bản Hán dịch của Cù-đàm Tăng-già-đề-bà 僧伽提婆, (Gautama Saṅghadeva) hiện hành được nói là Thánh điển của Hữu bộ (Sarvāstivāda). Do bởi Tăng-già-đề-bà vốn xuất thân từ Kaśmira (Kế-tân/ Ca-thấp-di-la); đây là thủ phủ, và cũng được xem là hệ chính thống, của Nhất thiết hữu bộ, do đó có thể khẳng định Trung A-hàm Hán dịch bởi Tăng-già-đề-bà cũng thuộc Hữu bộ. Điều này được phần lớn các nhà nghiên cứu hiện đại thừa nhận.Luật của các bộ phái, như Ngũ phần, Tăng-kỳ, Tứ phần, Thiện kiến, đều có quan điểm như nhau, theo đó, ngay trong đại hội kết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá các bộ loại Thánh điển nguyên thủy đã được định hình, trong đó, các kinh có lượng trung bình, không dài không ngắn được tập họp chung thành một bộ loại gọi là Trung. Định nghĩa này không tuyệt đối chính xác, xét theo hình thức các kinh thuộc Trung A-hàm bản Hán dịch hiện tại. Trong số các kinh được gọi là Trung, tương đương với các kinh được tìm thấy trong Majjhima-Nikāya, cũng có một số các kinh được tìm thấy tương đương trong Trường A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất, hoặc trong các bộ Dīgha-Nikāya, Samyutta-Nikāya, Khuddaka-Nikāya. Vì vậy, luật Tát-bà-đa tì-ni Tì-bà-sa của Hữu bộ nêu một định nghĩa khác: "Những nghĩa lý sâu xa được nói cho hàng chúng sinh lợi căn, tập hợp thành Trung A-hàm." Do bởi nguyên bản Phạn hay Sanskrit đã thất lạc, cũng không có bản dịch Tạng ngữ hoàn chỉnh tương đương, ngoại trừ một số Kinh đơn hành bản được tìm thấy trong luật Căn bản thuyết nhất thiết Hữu bộ (Mūlasarvāstivāda-vinaya) bản dịch Tạng ngữ. Toàn văn bản được xem là đầy đủ hiện chỉ tồn tại trong bản dịch Hán.Hiện nay cũng chưa có khảo cứu nào khả dĩ xác định hình thức tập thành nguyên thủy của Kinh này.Trong thời kỳ đầu, các kinh thuộc Trung A-hàm được dịch Hán sớm nhất có thể nói do bởi An Thế Cao 安世高, nay vẫn có thể đọc được trong Đại chánh tạng. Đây chỉ là bảy trong số 222 kinh hiện được biết.Nhìn chung, khởi đầu từ An Thế Cao, trong khoảng niên hiệu Kiến Hòa 2 đời Hậu Hán (tl. 148), cho đến Pháp Hiền 法賢, niên hiệu Hàm Ninh 4 đời Tống (tl. 1001), có tất cả 70 kinh đơn hành bản thuộc Trung A-hàm. (...)Ghi chú 1. Bộ Trung A-hàm gồm có 4 quyển (q.1-4) do Tuệ Sỹ dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    467

    TRUNG A-HÀM, Quyển 3. Việt dịch & chú TUỆ SỸTrung A-hàm, bản Hán dịch của Cù-đàm Tăng-già-đề-bà 僧伽提婆, (Gautama Saṅghadeva) hiện hành được nói là Thánh điển của Hữu bộ (Sarvāstivāda). Do bởi Tăng-già-đề-bà vốn xuất thân từ Kaśmira (Kế-tân/ Ca-thấp-di-la); đây là thủ phủ, và cũng được xem là hệ chính thống, của Nhất thiết hữu bộ, do đó có thể khẳng định Trung A-hàm Hán dịch bởi Tăng-già-đề-bà cũng thuộc Hữu bộ. Điều này được phần lớn các nhà nghiên cứu hiện đại thừa nhận.Luật của các bộ phái, như Ngũ phần, Tăng-kỳ, Tứ phần, Thiện kiến, đều có quan điểm như nhau, theo đó, ngay trong đại hội kết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá các bộ loại Thánh điển nguyên thủy đã được định hình, trong đó, các kinh có lượng trung bình, không dài không ngắn được tập họp chung thành một bộ loại gọi là Trung. Định nghĩa này không tuyệt đối chính xác, xét theo hình thức các kinh thuộc Trung A-hàm bản Hán dịch hiện tại. Trong số các kinh được gọi là Trung, tương đương với các kinh được tìm thấy trong Majjhima-Nikāya, cũng có một số các kinh được tìm thấy tương đương trong Trường A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất, hoặc trong các bộ Dīgha-Nikāya, Samyutta-Nikāya, Khuddaka-Nikāya. Vì vậy, luật Tát-bà-đa tì-ni Tì-bà-sa của Hữu bộ nêu một định nghĩa khác: "Những nghĩa lý sâu xa được nói cho hàng chúng sinh lợi căn, tập hợp thành Trung A-hàm." Do bởi nguyên bản Phạn hay Sanskrit đã thất lạc, cũng không có bản dịch Tạng ngữ hoàn chỉnh tương đương, ngoại trừ một số Kinh đơn hành bản được tìm thấy trong luật Căn bản thuyết nhất thiết Hữu bộ (Mūlasarvāstivāda-vinaya) bản dịch Tạng ngữ. Toàn văn bản được xem là đầy đủ hiện chỉ tồn tại trong bản dịch Hán.Hiện nay cũng chưa có khảo cứu nào khả dĩ xác định hình thức tập thành nguyên thủy của Kinh này.Trong thời kỳ đầu, các kinh thuộc Trung A-hàm được dịch Hán sớm nhất có thể nói do bởi An Thế Cao 安世高, nay vẫn có thể đọc được trong Đại chánh tạng. Đây chỉ là bảy trong số 222 kinh hiện được biết.Nhìn chung, khởi đầu từ An Thế Cao, trong khoảng niên hiệu Kiến Hòa 2 đời Hậu Hán (tl. 148), cho đến Pháp Hiền 法賢, niên hiệu Hàm Ninh 4 đời Tống (tl. 1001), có tất cả 70 kinh đơn hành bản thuộc Trung A-hàm. (...)Ghi chú 1. Bộ Trung A-hàm gồm có 4 quyển (q.1-4) do Tuệ Sỹ dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    371

    TRUNG A-HÀM, Quyển 3. Việt dịch & chú TUỆ SỸTrung A-hàm, bản Hán dịch của Cù-đàm Tăng-già-đề-bà 僧伽提婆, (Gautama Saṅghadeva) hiện hành được nói là Thánh điển của Hữu bộ (Sarvāstivāda). Do bởi Tăng-già-đề-bà vốn xuất thân từ Kaśmira (Kế-tân/ Ca-thấp-di-la); đây là thủ phủ, và cũng được xem là hệ chính thống, của Nhất thiết hữu bộ, do đó có thể khẳng định Trung A-hàm Hán dịch bởi Tăng-già-đề-bà cũng thuộc Hữu bộ. Điều này được phần lớn các nhà nghiên cứu hiện đại thừa nhận.Luật của các bộ phái, như Ngũ phần, Tăng-kỳ, Tứ phần, Thiện kiến, đều có quan điểm như nhau, theo đó, ngay trong đại hội kết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá các bộ loại Thánh điển nguyên thủy đã được định hình, trong đó, các kinh có lượng trung bình, không dài không ngắn được tập họp chung thành một bộ loại gọi là Trung. Định nghĩa này không tuyệt đối chính xác, xét theo hình thức các kinh thuộc Trung A-hàm bản Hán dịch hiện tại. Trong số các kinh được gọi là Trung, tương đương với các kinh được tìm thấy trong Majjhima-Nikāya, cũng có một số các kinh được tìm thấy tương đương trong Trường A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất, hoặc trong các bộ Dīgha-Nikāya, Samyutta-Nikāya, Khuddaka-Nikāya. Vì vậy, luật Tát-bà-đa tì-ni Tì-bà-sa của Hữu bộ nêu một định nghĩa khác: "Những nghĩa lý sâu xa được nói cho hàng chúng sinh lợi căn, tập hợp thành Trung A-hàm." Do bởi nguyên bản Phạn hay Sanskrit đã thất lạc, cũng không có bản dịch Tạng ngữ hoàn chỉnh tương đương, ngoại trừ một số Kinh đơn hành bản được tìm thấy trong luật Căn bản thuyết nhất thiết Hữu bộ (Mūlasarvāstivāda-vinaya) bản dịch Tạng ngữ. Toàn văn bản được xem là đầy đủ hiện chỉ tồn tại trong bản dịch Hán.Hiện nay cũng chưa có khảo cứu nào khả dĩ xác định hình thức tập thành nguyên thủy của Kinh này.Trong thời kỳ đầu, các kinh thuộc Trung A-hàm được dịch Hán sớm nhất có thể nói do bởi An Thế Cao 安世高, nay vẫn có thể đọc được trong Đại chánh tạng. Đây chỉ là bảy trong số 222 kinh hiện được biết.Nhìn chung, khởi đầu từ An Thế Cao, trong khoảng niên hiệu Kiến Hòa 2 đời Hậu Hán (tl. 148), cho đến Pháp Hiền 法賢, niên hiệu Hàm Ninh 4 đời Tống (tl. 1001), có tất cả 70 kinh đơn hành bản thuộc Trung A-hàm. (...)Ghi chú 1. Bộ Trung A-hàm gồm có 4 quyển (q.1-4) do Tuệ Sỹ dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    437

    TRUNG A-HÀM, Quyển 4. Việt dịch & chú TUỆ SỸTrung A-hàm, bản Hán dịch của Cù-đàm Tăng-già-đề-bà 僧伽提婆, (Gautama Saṅghadeva) hiện hành được nói là Thánh điển của Hữu bộ (Sarvāstivāda). Do bởi Tăng-già-đề-bà vốn xuất thân từ Kaśmira (Kế-tân/ Ca-thấp-di-la); đây là thủ phủ, và cũng được xem là hệ chính thống, của Nhất thiết hữu bộ, do đó có thể khẳng định Trung A-hàm Hán dịch bởi Tăng-già-đề-bà cũng thuộc Hữu bộ. Điều này được phần lớn các nhà nghiên cứu hiện đại thừa nhận.Luật của các bộ phái, như Ngũ phần, Tăng-kỳ, Tứ phần, Thiện kiến, đều có quan điểm như nhau, theo đó, ngay trong đại hội kết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá các bộ loại Thánh điển nguyên thủy đã được định hình, trong đó, các kinh có lượng trung bình, không dài không ngắn được tập họp chung thành một bộ loại gọi là Trung. Định nghĩa này không tuyệt đối chính xác, xét theo hình thức các kinh thuộc Trung A-hàm bản Hán dịch hiện tại. Trong số các kinh được gọi là Trung, tương đương với các kinh được tìm thấy trong Majjhima-Nikāya, cũng có một số các kinh được tìm thấy tương đương trong Trường A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất, hoặc trong các bộ Dīgha-Nikāya, Samyutta-Nikāya, Khuddaka-Nikāya. Vì vậy, luật Tát-bà-đa tì-ni Tì-bà-sa của Hữu bộ nêu một định nghĩa khác: "Những nghĩa lý sâu xa được nói cho hàng chúng sinh lợi căn, tập hợp thành Trung A-hàm." Do bởi nguyên bản Phạn hay Sanskrit đã thất lạc, cũng không có bản dịch Tạng ngữ hoàn chỉnh tương đương, ngoại trừ một số Kinh đơn hành bản được tìm thấy trong luật Căn bản thuyết nhất thiết Hữu bộ (Mūlasarvāstivāda-vinaya) bản dịch Tạng ngữ. Toàn văn bản được xem là đầy đủ hiện chỉ tồn tại trong bản dịch Hán.Hiện nay cũng chưa có khảo cứu nào khả dĩ xác định hình thức tập thành nguyên thủy của Kinh này.Trong thời kỳ đầu, các kinh thuộc Trung A-hàm được dịch Hán sớm nhất có thể nói do bởi An Thế Cao 安世高, nay vẫn có thể đọc được trong Đại chánh tạng. Đây chỉ là bảy trong số 222 kinh hiện được biết.Nhìn chung, khởi đầu từ An Thế Cao, trong khoảng niên hiệu Kiến Hòa 2 đời Hậu Hán (tl. 148), cho đến Pháp Hiền 法賢, niên hiệu Hàm Ninh 4 đời Tống (tl. 1001), có tất cả 70 kinh đơn hành bản thuộc Trung A-hàm. (...)Ghi chú 1. Bộ Trung A-hàm gồm có 4 quyển (q.1-4) do Tuệ Sỹ dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

  •  
    371

    TRUNG A-HÀM, Quyển 4. Việt dịch & chú TUỆ SỸTrung A-hàm, bản Hán dịch của Cù-đàm Tăng-già-đề-bà 僧伽提婆, (Gautama Saṅghadeva) hiện hành được nói là Thánh điển của Hữu bộ (Sarvāstivāda). Do bởi Tăng-già-đề-bà vốn xuất thân từ Kaśmira (Kế-tân/ Ca-thấp-di-la); đây là thủ phủ, và cũng được xem là hệ chính thống, của Nhất thiết hữu bộ, do đó có thể khẳng định Trung A-hàm Hán dịch bởi Tăng-già-đề-bà cũng thuộc Hữu bộ. Điều này được phần lớn các nhà nghiên cứu hiện đại thừa nhận.Luật của các bộ phái, như Ngũ phần, Tăng-kỳ, Tứ phần, Thiện kiến, đều có quan điểm như nhau, theo đó, ngay trong đại hội kết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá các bộ loại Thánh điển nguyên thủy đã được định hình, trong đó, các kinh có lượng trung bình, không dài không ngắn được tập họp chung thành một bộ loại gọi là Trung. Định nghĩa này không tuyệt đối chính xác, xét theo hình thức các kinh thuộc Trung A-hàm bản Hán dịch hiện tại. Trong số các kinh được gọi là Trung, tương đương với các kinh được tìm thấy trong Majjhima-Nikāya, cũng có một số các kinh được tìm thấy tương đương trong Trường A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất, hoặc trong các bộ Dīgha-Nikāya, Samyutta-Nikāya, Khuddaka-Nikāya. Vì vậy, luật Tát-bà-đa tì-ni Tì-bà-sa của Hữu bộ nêu một định nghĩa khác: "Những nghĩa lý sâu xa được nói cho hàng chúng sinh lợi căn, tập hợp thành Trung A-hàm." Do bởi nguyên bản Phạn hay Sanskrit đã thất lạc, cũng không có bản dịch Tạng ngữ hoàn chỉnh tương đương, ngoại trừ một số Kinh đơn hành bản được tìm thấy trong luật Căn bản thuyết nhất thiết Hữu bộ (Mūlasarvāstivāda-vinaya) bản dịch Tạng ngữ. Toàn văn bản được xem là đầy đủ hiện chỉ tồn tại trong bản dịch Hán.Hiện nay cũng chưa có khảo cứu nào khả dĩ xác định hình thức tập thành nguyên thủy của Kinh này.Trong thời kỳ đầu, các kinh thuộc Trung A-hàm được dịch Hán sớm nhất có thể nói do bởi An Thế Cao 安世高, nay vẫn có thể đọc được trong Đại chánh tạng. Đây chỉ là bảy trong số 222 kinh hiện được biết.Nhìn chung, khởi đầu từ An Thế Cao, trong khoảng niên hiệu Kiến Hòa 2 đời Hậu Hán (tl. 148), cho đến Pháp Hiền 法賢, niên hiệu Hàm Ninh 4 đời Tống (tl. 1001), có tất cả 70 kinh đơn hành bản thuộc Trung A-hàm. (...)Ghi chú 1. Bộ Trung A-hàm gồm có 4 quyển (q.1-4) do Tuệ Sỹ dịch Việt và chú thích; cộng 1 sách Tổng Lục do Tuệ Sỹ biên soạn.2. Toàn bộ sách do Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam thực hiện đều được ấn hành phi lợi nhuận. Với tâm nguyện cúng dường Pháp thí, Hội Ấn Hành ĐTKVN lần lượt in các Kinh Luật Luận trên giấy tốt và bìa dày tại các nhà in chuyên dụng để cúng dường thập phương. Ngoài ra, nếu quý vị muốn thỉnh Kinh sách theo nhu cầu cá nhân mà không bị gián đoạn, hay trường hợp Kinh sách in đã phân phối hết, xin tùy chọn cách đặt in sách "print on demand" nơi đây và tự nguyện trả các chi phí. Giá niêm yết ở đây là các chi phí tối thiểu do các hệ thống phát hành quốc tế quy định, chúng tôi hoàn toàn không thu bất kỳ lợi nhuận nào trong Phật sự này.

Gör som tusentals andra bokälskare

Prenumerera på vårt nyhetsbrev för att få fantastiska erbjudanden och inspiration för din nästa läsning.